một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập


Là một giáo viên tiểu học không chỉ truyền thụ cho học sinh nội dung kiến ​​thức môn học mà còn phải làm tốt vai trò chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục.

GIỚI THIỆU
Là một giáo viên tiểu học không chỉ truyền thụ cho học sinh nội dung kiến ​​thức môn học mà còn phải làm tốt vai trò chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không những phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục một đứa trẻ trở nên hoàn thiện không hề đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả kỹ năng, kiến ​​thức, nội dung và phương pháp khi đứng trên bục giảng. Để nhận thức được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và xử lý linh hoạt mọi tình huống xảy ra trong quá trình dạy học. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm làm giáo viên chủ nhiệm lớp 4, tôi đã tự rút ra cho mình một số biện pháp để thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp. Năm nay, tôi mạnh dạn viết Sáng kiến ​​kinh nghiệm. , với chủ đề: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu đến bạn bè, đồng nghiệp gần xa. Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và công tác chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh nói riêng một cách tốt nhất. Hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ và góp ý chân thành của các cấp lãnh đạo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn! A. GIỚI THIỆU
TÔI – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, đặc biệt là phát triển kinh tế trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, ngành giáo dục là ngành mở đường đầu tiên. Vì vậy, ngành giáo dục nước ta luôn chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy đạo đức, lối sống ngày càng xuống cấp, thanh thiếu niên vi phạm pháp luật nhiều. Ở các trường phổ thông nói chung và tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, chưa biết nhiều, các em thích “Trang giấy trắng” viết sao cho đậm, khó tẩy xóa. Chúng rất ngây thơ, hiếu động, dễ bị dụ dỗ và nghe lời. Mặt khác, trong học tập, có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy nhiệm vụ của tôi cũng rất lớn trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách của mỗi con người trong xã hội, bắt đầu từ lứa học sinh mà tôi phụ trách. Từng ngày, từng giờ đau đáu trăn trở làm sao để con có kết quả tốt nhất trong việc hoàn thiện con người, trở thành công dân tốt của gia đình và xã hội? Xuất phát từ những lý do trên, sau nhiều năm làm công tác quản lý, tôi luôn tìm cho mình những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công việc nhằm đạt được kết quả như mong muốn. để mỗi “Mầm non Tổ quốc” sinh sôi, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng chính là lý do tôi chọn viết Sáng kiến ​​kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
1- Mục tiêu :
– Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân học sinh còn hạn chế về nền nếp khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh, chuẩn mực đạo đức, kỹ năng sống.
– Đề xuất “Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm của giáo viên” nhằm giúp học sinh trở thành người có năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống chuẩn mực, nhân cách tốt trong xã hội.
2- Nhiệm vụ : Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau:
– Tìm hiểu nguyên nhân học sinh còn hạn chế về nền nếp khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh, chuẩn mực đạo đức, kỹ năng sống.
– Từ thực trạng và kết quả nghiên cứu, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác chủ nhiệm lớp 4 của giáo viên trong quá trình dạy-học trên lớp.
– Đề xuất một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả mọi mặt của lớp.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số biện pháp, hạn chế của học sinh về nề nếp khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ, chuẩn mực đạo đức, kỹ năng sống của học sinh. của mỗi bạn học sinh lớp 4B trường THPT Lý Thường Kiệt.
2 . đối tượng nghiên cứu :
Trong đề tài này tôi nghiên cứu 22 học sinh lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar – Tỉnh Đăk Lăk.
IV. GIỚI HẠN CỦA NGHIÊN CỨU.
– Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về nội quy khi đến trường, việc thực hiện nhiệm vụ, chuẩn mực đạo đức và kỹ năng sống của học sinh. Cụ thể, lớp 4B do tôi chủ nhiệm có 22 học sinh. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về nền nếp khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ, chuẩn mực đạo đức, kỹ năng sống của học sinh là do ý thức, tính tự giác, khả năng giao tiếp, theo dõi và đề xuất nâng cao chuẩn năng lực còn kém, phẩm chất, tư cách đạo đức của mỗi em học sinh lớp 4B Trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar.
–  Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.
– Thời gian triển khai nghiên cứu, ứng dụng từ đầu tháng 8/2015 đến hết tháng 3/2016.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
– Phương pháp quan sát
– Phương pháp điều tra, đàm thoại.
– Phương pháp làm mẫu.
– Phương pháp tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý HS.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu.
– Phương pháp đọc sách, tài liệu tham khảo.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Lý luận khoa học:
Trong lịch sử nhân loại, giáo dục không ngừng phát triển và là động lực phát triển kinh tế – xã hội; Giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh quy mô, thích ứng nhanh với yêu cầu thay đổi của nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế – xã hội, của khoa học và công nghệ cũng tác động trở lại sự phát triển của giáo dục. Hiện nay, các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm đến đổi mới giáo dục để đáp ứng yêu cầu hội nhập và quốc tế hóa. Đây là cơ hội và cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Một mặt tạo cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực trí thức ngày càng cao. Mặt khác, kinh tế học đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng nhu cầu trước mắt, dự đoán và định hướng đúng đắn cho tương lai. Một ngôi nhà vững chắc cần một nền móng vững chắc. Vì vậy, ngay từ bậc tiểu học, học sinh phải học đều các môn để phát triển toàn diện. Ngoài việc tiếp thu kiến ​​thức môn học, học sinh còn cần được trang bị nhiều kỹ năng khác như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, xử lý tình huống, biết phân biệt đúng sai,… để tạo tiền đề cho các em học tiếp lên các bậc học cao hơn, hướng tới hoàn thiện nhân cách của các em sau này.
2. Lý thuyết thực hành:
Là một giáo viên tiểu học, cô chịu trách nhiệm toàn diện về lớp của mình, trực tiếp giảng dạy các bộ môn, đồng thời tổ chức, hướng dẫn mọi hoạt động giáo dục. Trong giờ học, cô chủ nhiệm luôn là người bên cạnh, là “người mẹ thứ hai” của các con, luôn gần gũi, theo dõi mọi hành động, cách cư xử của từng trẻ trong lớp. Học sinh tiểu học còn chưa biết cách hoạt động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, để mỗi học sinh có được công việc phù hợp, bộc lộ năng lực của mình. Mở rộng, khắc sâu kiến ​​thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục tính tự giác, tác phong, thoả mãn nhu cầu, kích thích hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, cô giáo chủ nhiệm là “thần tượng”, là người mà các em tin tưởng nhất, thầy cô nghe mọi điều chúng nói, vâng lời thầy cô là điều duy nhất mà học sinh nào cũng có. sinh ra. Chính vì vậy người giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm đến từng lời nói, hành động, việc làm trước mặt học sinh, là tấm gương sáng cho các em noi theo. Thông qua công tác chủ nhiệm, giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ, giúp trẻ trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để trẻ trưởng thành. trở thành, trưởng thành, vững bước vào đời.
II. THỰC TẾ:
Đầu tiên . Ưu điểm và nhược điểm:
1.1. Thuận lợi:
– Năm học 2015-2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B. Với các tổng là: 22; nữ: 14; Dân tộc: 1; Khuyết: 1. Số lượng học sinh không đông, dân tộc ít, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi.
– Lớp học 2 buổi/ngày, Toán ôn tập 3 tiết/tuần, Tiếng Việt 2 tiết/tuần. Cần có thời gian cố định để kèm cặp những em yếu kém.
Hầu hết các em đều được gia đình chăm lo, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa…
– Mặt khác, phòng học rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ.
– Đa số các cháu đều cố gắng học tập, vâng lời, lễ phép với cô giáo.
1.2. Cứng:
– Địa bàn thuần nông, thời gian lao động nhiều, thời gian dạy dỗ, hướng dẫn con cái ít.
– Trong lớp có 3 em thuộc diện hộ cận nghèo và một số em thuộc diện gia đình kinh tế khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống. Sự quan tâm về mọi mặt chưa đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, đi lại mất nhiều thời gian, đi cả chặng đường mệt mỏi nên ảnh hưởng đến sức khỏe khi các em đến lớp.
– Mặt khác, trí tuệ của các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu) của các em cũng không đồng đều. Còn một số em chưa chú ý, chưa có thái độ học tập tích cực mà đến lớp theo thói quen, có thái độ chểnh mảng. Cô giáo dạy xong hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những đứa trẻ đó thường có tâm lý tự ti, mặc cảm, sợ hãi, nhút nhát, không biết thể hiện bản thân.
– Phần lớn vốn giao tiếp của các em còn rất hạn chế, nói không to, rõ ràng hoặc giọng rất nhỏ, nói lắp bắp, không nghe được.
* điều tra tình hình
Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và cách ứng xử, giao tiếp, kỹ năng sống, hiểu biết,… trong lớp học của 22 học sinh lớp 4B, trường Tiểu học Lý Thường Kiệt.
Đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Trong lớp còn một số em chưa tự giác trong học tập. chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, ít nói, ít hoạt động,…; Một số em còn quậy phá, trêu chọc hoặc đánh bạn; Một số em chưa thật ngoan, nói năng trống không, chưa lễ phép; Nhiều em viết còn nhiều lỗi, chưa đẹp; Trang phục chưa được mua sắm đầy đủ;… Đó là thực trạng mà tôi luôn trăn trở, trăn trở khi làm công tác chủ nhiệm lớp 4B trong năm học này. Do tính chất ứng dụng của đề tài nên sau hai tuần đầu tiên của năm học, qua trao đổi và nghiên cứu, tôi hướng đến một số số liệu với các nội dung chính sau:
Tổng HS Nội dung học Số lượng Tỉ lệ
22
(1 KT)
1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết còn nhiều lỗi, chưa đẹp.
3) Học sinh chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói tục, không lịch sự.
5) Học sinh còn quậy phá, trêu bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh không mặc quần áo đầy đủ.
8) Học sinh còn ít nói, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh vốn kĩ năng sống còn hạn chế.
10) Học sinh hay để quên vở, sách, đồ dùng, v.v.
mười
7
số 8
thứ mười hai
5
2
4
6
9
7
47,6
33.3
38,0
57.1
23,8
9,5
19,0
28,5
42,9
33.3
Kết quả trên cho thấy tỉ lệ học sinh thuộc nội dung trên chiếm nhiều hơn tổng số học sinh của lớp.
2 . Thành công – hạn chế
2.1. Thành công: Khi lên ý tưởng và thực hiện đề tài này tôi thấy đối với học sinh lớp 4B sẽ đạt hiệu quả cao hơn, dựa vào những ưu điểm trên và sự quan tâm của giáo viên cũng như một số biện pháp, giải pháp. có phương pháp, cách xử lý linh hoạt phù hợp với đối tượng học sinh, nắm bắt được tâm sinh lý học sinh. Chắc chắn cuối năm lớp sẽ đạt kết quả cao trong học tập, các em sẽ ngoan, đi vào nền nếp, vững bước lên các lớp tiếp theo, sẽ mang lại những thành công như mong muốn.
2.2. Giới hạn: Trong quá trình dạy trên lớp, hàng ngày cô trực tiếp tổ chức, hướng dẫn các em về mọi mặt, tôi thấy một số em kỹ năng giao tiếp chưa tốt, tiếp thu bài chậm, thái độ thờ ơ. Họ không tự tin và mạnh dạn bày tỏ ý kiến ​​của mình. Ngược lại là trốn tránh, mặc cảm, e dè, sợ hãi. Bố mẹ các em thường làm ruộng nên nếu có việc gì muốn gặp để bàn bạc thì liên lạc cũng không kịp. Một số hạn chế trên tôi thấy việc áp dụng đề tài còn gặp phải những hạn chế không nhỏ.
3 . Điểm mạnh và điểm yếu của vấn đề.
3.1. Điểm mạnh:
Tôi là giáo viên đã 13 năm liền làm chủ nhiệm, chủ nhiệm 11 năm nên tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, có nhiều biện pháp tốt trong công tác. chủ tịch của nó.
Ngay từ đầu năm tôi nhận thấy hầu hết học sinh trong lớp đều chăm ngoan, ngoan ngoãn, luôn phấn đấu. Khi mắc lỗi biết nhận lỗi và sửa sai ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp, trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn được cô dạy bảo, làm mẫu. Rất hào hứng khi làm đúng, được cô giáo khen.
Em luôn được các bạn yêu quý, kính trọng và vâng lời. Cô phân công, giao việc, các em đều lắng nghe và chấp hành tốt. Mặt khác, cha mẹ cô tin tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, sát cánh cùng cô giáo dục con em, tạo điều kiện tốt nhất giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm.
3.2. Mặt yếu:
– Một số em ham chơi, chưa chăm học, chưa tích cực, chưa biết, chưa hiểu chưa học bài, chưa chú ý đến sự phân tích giảng giải của cô.
– Một số em tâm trạng chưa tốt, chưa có vốn giao tiếp, năng lực hạn chế, không khỏe mạnh, gầy gò, thấp bé so với các bạn cùng trang lứa.
– Hầu hết các gia đình đi làm về, nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ. Không có thời gian để bảo họ xem TV, đọc báo, đọc sách,… để mở mang tầm hiểu biết và tầm nhìn.
4. Nguyên nhân, nhân tố ảnh hưởng
Từ tình trạng học sinh tiếp thu bài còn hạn chế, ít học bài, ít chú ý trong giờ học. Kỹ năng sống, ứng xử, giao tiếp còn nhiều hạn chế do một số nguyên nhân và yếu tố sau:
4.1. Về tâm lý: Với lứa tuổi lớp 4, các em chuẩn bị bước vào tuổi dậy thì nên có những thay đổi về thể chất, tâm lý,… Các em mới bước vào lớp 4 đã có những thay đổi về môn học, kiến ​​thức. , các hoạt động khác cũng được nâng cao dẫn đến các em có phần e ngại, bỡ ngỡ. Mặt khác, kiến ​​thức ở lớp dưới các em học rồi lại quên, không biết vận dụng, nhiều em không còn nhớ một nội dung nào dưới lớp 1, 2, 3 mà các em đã học. Một số trẻ hiếu động, bắt nạt bạn, trêu chọc bạn, ít chịu ngồi yên. Ở độ tuổi của các em, hầu hết các em đều ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô và các bạn giải bài rồi ghi sẵn. Giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn thiện, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nền nếp, các em vẫn chưa tôn trọng, chỉ làm theo ý mình thích, bất chấp nội quy của trường, lớp.
4.2. Về hoàn cảnh gia đình học sinh:
Đa số học sinh lớp em sống ở môi trường nông thôn nên tư duy, nhận thức còn nhiều hạn chế. Điều kiện học tập của các em ở nhà còn kém: Thiếu sự dìu dắt, bảo bọc của cha mẹ, do phần lớn cha mẹ các em có trình độ thấp, chỉ biết làm ruộng, ít có thời gian giáo dục, dạy dỗ. con cái hoặc đốc thúc việc học hành của con cái; Thiếu vật chất, góc học không phù hợp hoặc không có con. Có em gái, mẹ đã mất, sống với bố nên em thiệt thòi rất nhiều về tình cảm, tinh thần và sự chăm sóc.
Cha mẹ các em chưa quan tâm rèn luyện cho con em mình cách ăn nói, xưng hô lễ phép, lễ phép. Trẻ giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em hầu hết câu trả lời còn ngắn gọn, chưa nói thành câu, lâu dần thành thói quen.
4.3. Đối với giáo viên: Về phía giáo viên, họ chưa nắm bắt được tâm lý học sinh, khi hỏi các em yêu cầu gì thì trả lời được, nhưng các em chưa hình dung được, chưa suy nghĩ được, chỉ đặt câu hỏi. Câu hỏi mẫu, buộc học sinh yêu cầu học sinh trả lời theo ý riêng. Phương thức truyền dẫn không phù hợp. Đôi khi con trả lời không đúng thì cứ mặc kệ, gọi con khác trả lời thay, không cần quan tâm lắm tại sao con lại trả lời sai? Không đặt câu hỏi để phát huy tính tích cực tự giác của học sinh. Đôi khi giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân mật với các em nên học sinh e ngại, phần khác uể oải. Kiến thức lớp 4 hơi nặng và nhiều nên việc truyền tải cho các em chiếm hết thời lượng dẫn đến không có thời gian cho các em. Vì vậy, đôi khi việc xử lý một số tình huống chưa kịp thời, học sinh phạm lỗi thì còn được tha thứ, chưa có sự bảo vệ tỉ mỉ.
III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:
Đầu tiên. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Cá nhân tôi thấy công việc lãnh đạo vô cùng khó khăn. Nó có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện học sinh ở lứa tuổi tiểu học, là nền tảng để các em lớn lên và trưởng thành, trở thành người có năng lực và chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, mục đích của các biện pháp, giải pháp của chuyên đề này là nhằm nâng cao chất lượng học tập, rèn ý thức tự giác, tự quản, rèn kỹ năng sống, giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức cho các em. học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp mình nói riêng. Để cuối năm đạt kết quả cao trên mọi lĩnh vực.
2. Nội dung, phương thức thực hiện các giải pháp, biện pháp.
2.1. Nội dung: Các biện pháp, giải pháp để làm tốt công tác quản lý thì rất nhiều và đa dạng, nhưng bản thân tôi xin tóm lược với những nội dung chính và quan trọng nhất, cụ thể như sau:
– Triển khai công tác xây dựng nội quy đầu năm.
– Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
– Một số biện pháp giúp trẻ học tốt ở lớp và ở nhà.
– Phối hợp chặt chẽ với BGH, Tổ và giáo viên bộ môn.
2.2. Cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
2.2.1. Triển khai công tác xây dựng nội quy đầu năm : Xây dựng nề nếp lớp là nhiệm vụ hàng đầu của giáo viên chủ nhiệm, để làm tốt công tác chủ nhiệm thì ngay từ đầu năm giáo viên cần phải đưa lớp vào nề nếp, nề nếp. Đó là những gì chúng ta đã đạt được trong suốt năm học . Để làm tốt việc xây dựng nội quy lớp, tôi định hướng làm một số việc sau:
a) Nắm thông tin học sinh : Việc nắm rõ thông tin học sinh đầu năm là vô cùng cần thiết. Việc lấy thông tin học sinh giúp giáo viên chủ nhiệm ghi lý lịch giáo viên, nắm được hoàn cảnh gia đình, học lực năm trước, liên hệ với gia đình,… Đầu năm tôi lập phiếu thông tin học sinh, phát cho từng em, hướng dẫn các em viết đầy đủ, rõ ràng rồi sưu tầm để phục vụ công tác chủ nhiệm lớp mình. Mẫu phiếu như sau:
BẢNG THÔNG TIN SINH VIÊN
1) Họ và tên:…………………………………………………… Dân tộc:……………………………………………………….
2) Ngày, tháng, năm sinh:………………………………………………………
3) Nơi sinh:……………………. Quê hương:………………………………..
4) Địa chỉ: Số nhà:….Tổ:…Thôn:…Xã:…………Huyện:……………
(Số điện thoại gia đình:……………)
5) Họ và tên bố:…………………….Sinh năm:…….Nghề nghiệp:……………………..
Họ và tên mẹ:……………… …Sinh năm:…….Nghề nghiệp:……………….
6) Sống với: Cha + mẹ: o ;Bố: o ; Mẹ: o ; Ông bà: o  ;Bố già: o
7) Gia cảnh: (khá giả, đủ ăn, cận nghèo, nghèo):…………………….
8) Kết quả học tập cuối năm lớp 3: (Kiểm tra tốt, kiểm tra khá, kiểm tra xuất sắc):…………
9) Môn học yêu thích:………………………………………………………
10) Góc học tập riêng ở nhà: (Có, không, cùng học):…………………….
11) Sở thích (Năng khiếu):……………………………………………………….
b) Xử lý thông tin:
Sau khi thu phiếu khảo sát, tôi đã có đầy đủ thông tin của học sinh, phục vụ các việc sau: + Ghi chép vào hồ sơ: Tôi đã ghi đầy đủ các thông tin cần thiết vào sổ theo dõi chất lượng, sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc với gia đình học sinh,… Cập nhật phần mềm smax 3.0 (Quản lý sinh viên).
+ Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh: Tôi dựa vào kết quả học tập của học sinh, phần nào nắm được đối tượng học sinh khá, giỏi, yếu kém để sắp xếp chỗ ngồi cho hợp lý như: Nam xen kẽ nữ, em khá giỏi. ngồi cùng người yêu kém, kết hợp phân công 2 người bạn tiến lên,…
+ Giao lưu, chia sẻ: Tôi đã chủ động đến gặp gỡ một số em, hỏi thăm thêm về gia cảnh, hoàn cảnh sinh hoạt của gia đình các em,… để động viên, chia sẻ, giúp đỡ.
c) Bầu ban cán sự lớp: Bầu ban cán sự lớp là việc cần làm ngay từ đầu năm, đây là một trong những điều kiện để học sinh thể hiện bản thân, có ý thức tự quản tốt, nề nếp. Vì vậy, tôi đã sắp xếp thời gian hợp lý nhất, cho các em tổ chức bầu ban cán sự lớp theo quy định, chọn những em có năng lực tốt đảm nhận nhiệm vụ lớp giao thì giao nhiệm vụ. cụ thể đối với từng cán bộ công nhân viên.
2.2.2. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”:
Thực hiện Chỉ thị số 40/CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua và kế hoạch số 307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Kế hoạch triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”  nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Sau nhiều năm thực hiện tôi thấy rất hiệu quả đối với ngành giáo dục nói chung và đặc biệt là đối với trường tiểu học nói riêng. Để xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì mỗi giáo viên đứng lớp phải xây dựng “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Căn cứ vào 5 nội dung được quy định trong kế hoạch của Bộ, tôi đã thực hiện như sau:
a) Trang trí lớp học thân thiện: Lớp học là nơi trẻ học tập và vui chơi. Vì vậy, ngoài việc có một phòng học rộng rãi, thoáng mát, đầy đủ trang thiết bị còn cần một lớp học được trang trí đẹp mắt, thân thiện, gần gũi với các em, tạo cho các em sự thích thú, say mê, vui vẻ. hào hứng ngồi vào lớp. Vì vậy ngay từ đầu năm tôi và các bạn học sinh đã trang trí lớp học thật đẹp, có nội dung, hình ảnh phong phú, đa dạng phục vụ cho việc học tập tốt hơn, mang lại nhiều niềm vui mỗi ngày cho các con. đến lớp.
b) Xây dựng mối quan hệ thầy trò, bạn bè trong và ngoài lớp:
* Quan hệ thầy trò: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, mối quan hệ thầy trò trở nên thân thiện, gần gũi như những người bạn thực sự, giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn học sinh trong quá trình dạy học. Vì vậy, việc xây dựng mối quan hệ thầy trò đối với tôi không khó. Cụ thể là tôi luôn tạo sự gần gũi, gần gũi với học sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, nhẹ nhàng không để các em e ngại khi đứng trước thầy, tôi luôn chủ động hướng dẫn, tôi thường nói: “Nếu em muốn có ý kiến ​​gì cứ trao đổi với cô, cô sẽ luôn giúp đỡ và hỗ trợ em trong học tập cũng như trong cuộc sống”. Trong lớp có những khúc mắc giữa các học sinh với nhau, tôi luôn từ tốn giải quyết một cách công bằng, hợp tình, hợp lý. Khen thưởng những em có thành tích cũng như xử phạt, răn đe rõ ràng nhưng trong quá trình răn đe, giáo dục tôi vẫn động viên, khuyến khích các em tìm ra điểm tốt của mình để làm gương, nêu lỗi sai xin các em đừng vi phạm chúng một lần nữa. Đối với học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, tôi luôn giáo dục nhẹ nhàng, chỉ bảo tỉ mỉ, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm mà em chưa từng mắc phải. bạn đã cam kết. Chính vì vậy tôi luôn được các cháu kính trọng, yêu quý, vâng lời, từ đó các cháu rất tự tin, hứng thú, kích thích trí tò mò, thích đến lớp của các cháu.
* Mối quan hệ với bạn bè trong và ngoài lớp: Tình bạn là tình cảm quý giá nhất của mỗi chúng ta. Ở nhà, chúng ta có tình yêu thương của ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng,… thì ở lớp không thể thiếu tình bạn. Có nhiều bạn tốt ta luôn tự hào và là điều kiện giúp ta vươn lên trong cuộc sống, người ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”, bạn bè cần giúp đỡ nhau, vui buồn có nhau . , phải yêu thương, đoàn kết, chia sẻ, cùng nhau phấn đấu trong học tập và trong cuộc sống, sao cho thu được kết quả cao nhất. Để xây dựng tình bạn tốt trong và ngoài lớp của lớp tôi đã dạy các em như sau:
Trong học tập, học sinh phải giúp đỡ, hợp tác với nhau, học sinh giỏi chỉ dạy cho học sinh yếu kém, học sinh kém phải hỏi và trao đổi với những bạn hiểu biết hơn mình. Bạn không được ích kỷ hay hẹp hòi.
– Trong giao tiếp phải ăn nói lịch sự, dễ nghe, nói chậm rãi, nói lời nhã nhặn, không làm mất lòng anh, nếu có điều gì anh không hài lòng hoặc có chỗ sai sót xin anh nói để anh hiểu. Sửa lỗi, hoặc thậm chí gửi nó cho cô ấy để cùng nhau giải quyết.
– Trong cuộc sống, các em cần phải biết đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ những người khó khăn hơn mình, chia sẻ vui buồn với bạn bè,… thương yêu nhau như anh em trong một nhà.
– Tuyệt đối không chọc ghẹo, đánh bạn, xúc phạm bạn, không văng tục, chửi bậy. Không nói xấu bạn, không chia rẽ, bè phái, chơi với bạn này bạn nọ, v.v.
c) Tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể: Tham gia các hoạt động tập thể giúp các em rất nhiều về kỹ năng sống, các em có cơ hội thể hiện mình trước đám đông, thể hiện tài năng, năng lực và kỹ năng giao tiếp. Qua đó giáo dục các em hiểu biết về nhiều lĩnh vực của cuộc sống, phẩm chất, nhân cách, đạo đức,… Chính vì vậy trong công tác chủ nhiệm tôi luôn chú trọng đến việc tham gia và tổ chức các hoạt động cho các em. Sinh hoạt tập thể theo quy định, thời khóa biểu của trường, lớp. Những giờ sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoại khóa, hoạt động thể thao, vui chơi, múa hát… tôi đều tạo điều kiện cho các cháu tập luyện, tham gia đầy đủ, có hiệu quả.
2.2.3. Có một số cách để giúp trẻ học tốt ở lớp và ở nhà.
Là giáo viên chủ nhiệm, ai cũng mong muốn học sinh của mình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập, cuối năm đạt kết quả như mong muốn. Muốn vậy, người giáo viên cần phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải có phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt giúp học sinh tiếp thu kiến ​​thức một cách hiệu quả nhất. Vì vậy ngoài việc hướng dẫn các em học trên lớp thì việc học tốt ở nhà là rất cần thiết. Vì vậy, tôi đã đưa ra một số biện pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà như sau:
a) Học trên lớp: Căn cứ vào kết quả điều tra học sinh đầu năm tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho các em hợp lý, các em khá ngồi gần các em kém yêu. Theo cặp, các em giúp đỡ nhau và hỏi bài lẫn nhau khi giải các bài toán khó. Trong giờ học tôi luôn bao quát lớp, không để trẻ không chú ý. Giải thích cặn kẽ các bài tập khó, sử dụng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt như: PP thảo luận nhóm, PP vấn đáp, PP khăn trải bàn,… kích thích hứng thú, tính tích cực, tự giác của HS. học tập và sáng tạo của học sinh. Mặt khác, tôi luôn biểu dương, khen ngợi những em nhiệt tình trong giờ học, động viên, giúp đỡ kịp thời những em trả lời chưa đúng, còn tự tin, còn mặc cảm để các em cố gắng tiến bộ.
Thực hiện Thông tư số 30/2014/TT-BGD-ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đánh giá học sinh tiểu học. Thực hiện Công văn hướng dẫn thực hiện Thông tư 30 số 6169/BGDĐT-GDTH ngày 27 tháng 10 năm 2014. Bản thân tôi luôn thực hiện đúng, kịp thời quy định trong Thông tư, không gây áp lực cho học sinh khi học tập mà ngược lại còn tạo hứng thú và khuyến khích họ rất nhiều. Ngoài việc tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh bằng nhận xét, tôi còn tổ chức cho các em tự nhận xét lẫn nhau để rút kinh nghiệm khi học tốt, học chưa tốt kịp thời. sửa sai, sửa ngay, còn thi đua, phấn đấu cao trong học tập.
b) Học ở nhà: Ngoài việc học tốt trên lớp, nếu về nhà các em không ôn tập, học lại sẽ dẫn đến dễ quên, đứt mạch kiến ​​thức, không làm bài nhuần nhuyễn được. Vì vậy việc học và làm thêm bài tập ở nhà cũng rất cần thiết, một phần giúp các em nắm vững kiến ​​thức trên lớp, ghi nhớ bài khi cô kiểm tra bài cũ,… Vì vậy tôi có một số biện pháp giúp đỡ các em. trẻ học tốt ở nhà, đó là:
+ Lập thời gian biểu hợp lý nhất chung cho mọi trẻ.
+ Thường xuyên kiểm tra bài cũ, làm bài tập thêm.
+ Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để trao đổi thông tin về tình hình học tập của con em như gọi điện thoại, liên hệ qua sổ sách, đến trực tiếp nhà… Đặc biệt quan tâm trao đổi thường xuyên với phụ huynh học sinh nhất là những em còn yếu, tạo mọi điều kiện để được giúp đỡ kịp thời.
2.2.4. Phối hợp chặt chẽ với BGH, Tổ và giáo viên bộ môn.
Phối hợp là một trong những biện pháp hữu hiệu để răn đe và làm chủ. Đôi khi có những nhiệm vụ, nội dung, tình huống một mình giáo viên không thể giải quyết được thì cần nhờ đến sự hỗ trợ của BGH nhà trường, hoặc của Đội và giáo viên bộ môn nếu có điều kiện. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn xin ý kiến, chỉ đạo của BGH nhà trường mới cho phép tôi thực hiện. báo cáo ngay, cùng với BGĐ có biện pháp xử lý tốt nhất, đúng đắn nhất.
Đối với công tác Đội tôi luôn kết hợp việc giáo dục các em với Tổng phụ trách Đội, vì chức năng của Đội là tổ chức lễ chào cờ, các hoạt động tập thể, các hội thi, phong trào,… Nhằm phát huy khả năng, năng lực của các em, tôi luôn phối hợp với Tổng phụ trách tạo cơ hội, điều kiện để các em thể hiện mình. Bên cạnh đó, nếu có em chưa ngoan, mắc lỗi tôi cũng kết hợp với Liên đội để tạo hiệu quả răn đe, giáo dục.
Ngoài việc phối hợp với BGH, tổ em còn phối hợp với giáo viên bộ môn như hỏi thăm tình hình học tập, các hoạt động khác do giáo viên bộ môn phụ trách, đồng thời nếu thấy phù hợp thì có biện pháp xử lý phù hợp. giáo dục các cháu trong tất cả các giờ học, mặc dù không có giáo viên chủ nhiệm các cháu vẫn ngoan ngoãn, vâng lời, học tập và tham gia tốt mọi hoạt động.
3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
– Năm học này tôi được tiếp tục giảng dạy và làm chủ nhiệm lớp 4B. Bản thân tôi đã làm chủ nhiệm 13 năm liên tục nên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm.
– Do được sự hỗ trợ nhiệt tình của ban giám hiệu nhà trường, cùng bạn bè đồng nghiệp.
– Sự hợp tác của phụ huynh học sinh lớp mình phụ trách.
Đa số học sinh ham học, ngoan ngoãn, yêu mến, tin tưởng giáo viên chủ nhiệm.
4. Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp.
Việc sử dụng các biện pháp trên được kết hợp vận dụng phù hợp, linh hoạt, sáng tạo cộng với sự khéo léo, thông minh của giáo viên chủ nhiệm.
–  Xử lý thuyết phục, ăn nói nhẹ nhàng, mềm mỏng, kèm theo ví dụ, gương mẫu.
– Các cách thức, biện pháp trên được sử dụng linh hoạt, không nhất thiết phải theo thứ tự nhất, nhì mà có thể sử dụng bất cứ lúc nào, trường hợp nào thấy phù hợp thì có thể sử dụng đồng thời. Hai biện pháp như: Học giỏi trên lớp chưa đủ mà phải học tốt ở nhà mới đạt kết quả tốt. Học giỏi thôi chưa đủ mà cần phải có đạo đức tốt, nhân cách tốt. Cuối cùng là giúp các em hưởng ứng mạnh mẽ, hào hứng, phấn khởi và cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”.
IV- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC QUA NGHIÊN CỨU, GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Sau khi áp dụng đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” từ đầu năm đến hết tháng 3 năm 2015, tôi đã kiểm tra, theo dõi, nhận xét và thấy có số liệu về nội dung nghiên cứu ban đầu. trong năm có sự khác biệt như sau:
Tổng HS Nội dung học Số lượng Tỉ lệ
21 1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ.
2) Học sinh viết còn nhiều lỗi, chưa đẹp.
3) Học sinh chưa chú ý, tiếp thu chậm.
4) Học sinh nói tục, không lịch sự.
5) Học sinh còn quậy phá, trêu bạn, đánh bạn.
6) Học sinh cá biệt.
7) Học sinh không mặc quần áo đầy đủ.
8) Học sinh còn ít nói, tự ti, rụt rè.
9) Học sinh vốn kĩ năng sống còn hạn chế.
10) Học sinh hay để quên vở, sách, đồ dùng, v.v.
2
2
3
0
0
0
0
2
3
Đầu tiên
9,5
9,5
14.3
0
0
0
0
9,5
14.3
4.7
Ngoài những số liệu kiểm tra trên, lớp còn có những thành tích nổi bật sau:
– Lớp có nề nếp: Các cháu ngoan, hiền, biết nghe lời và làm theo lời cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là một lớp rất đoàn kết, các em luôn yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong công việc. Có tinh thần tự giác và trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, 5 nhiệm vụ của người học sinh, sinh viên, v.v.
– Đa số các em tích cực trong mọi hoạt động, nhất là trong học tập. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ của lớp rất có năng lực, các em gương mẫu, học giỏi, viết chữ đẹp, nhanh nhẹn, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
– Về thực hành giữ vở sạch, viết chữ đẹp: Đa số học sinh có ý thức giữ gìn vở sạch đẹp, luôn được bọc vở, dán nhãn, viết đầy đủ, không quăn góc, không lem, không rách. …,  chữ viết luôn được trau dồi, rèn luyện dưới sự uốn nắn, sửa sai của giáo viên. Đặc biệt có một số em viết rất đẹp như: Bích Ngọc, Vân, Triệu, Kiều, Trinh, Trang, Thuận, v.v.
– Về Team work: Với đội ngũ nhân viên năng động, nhiệt tình, có tinh thần kỷ luật tự giác, tinh thần trách nhiệm cao cộng với khả năng huấn luyện tốt. Các em luôn thực hiện và tham gia đầy đủ các phong trào do Đội đề ra: Kế hoạch nhỏ, Vòng tay bè bạn, các phong trào từ thiện, Viết thư UPU, Tham gia CLB Kể chuyện, Thơ yêu thương… đạt kết quả cao và tham gia 100%.
– Về trang trí lớp: Đạt giải A. phần thưởng
Qua một đợt thực hành áp dụng các biện pháp, giải pháp trên từ ngày 22/8/2015 đến ngày 31/3/2016, kết quả thu được đã khả quan hơn rất nhiều. Nhờ đó, hai môn Toán và Tiếng Việt đạt chất lượng cao hơn so với đầu năm, sĩ số học sinh các môn trên giảm rõ rệt nên tôi cũng yên tâm hơn một chút khi làm công tác chủ nhiệm lớp. Với kết quả này tôi sẽ tiếp tục duy trì, áp dụng và luôn giúp đỡ học sinh cho đến cuối năm học, tôi tin rằng kết quả cuối năm học sẽ được như mong muốn.
* Bài học kinh nghiệm khi áp dụng đề tài:
Qua việc thực hiện chuyên đề: “ Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4″ , Tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau:
– Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện đầy đủ công việc của lớp mình đầu năm.
– Giáo viên chủ nhiệm cần học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, vốn sống, năng lực chủ nhiệm luôn ở mức cao.
– Theo dõi, kiểm tra, quan tâm đến mọi hoạt động của học sinh trong lớp mình phụ trách. Tránh tình trạng lờ đi, phớt lờ, không giải thích rõ ràng khi bàn bạc hay kiện cáo gì đó. Ngược lại, bạn phải biết cách xử lý tốt trong mọi tình huống.
– Đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu kém, học sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt.
– Thường xuyên theo dõi nền nếp 15 phút đầu giờ, phân công nhiệm vụ cho tổ trưởng kiểm tra, sửa bài tập cùng với lớp trưởng, đội phó. Ban cán sự lớp tự tổ chức sinh hoạt cuối tuần, tổ trưởng, lớp trưởng nhận xét, đánh giá từng thành viên trong tổ để các bạn noi gương, rút ​​kinh nghiệm và đặc biệt là biết sửa sai. trước nhóm.
– Giáo dục đạo đức, thói quen cho học sinh thông qua các biện pháp thuyết phục, nêu gương, rèn luyện, khen thưởng, kỷ luật.
Việc ứng dụng vào chủ đề này cần có thời gian, không thể chỉ trong thời gian ngắn là có thể thực hiện được. Tuy cũng có những khó khăn nhất định nhưng tôi đã kiên trì cộng với lòng yêu nghề, mến trẻ, thực sự tâm huyết với đề tài nên đã đạt được kết quả như mong muốn. Và tôi chắc chắn rằng các đồng nghiệp của tôi thậm chí còn có nhiều kinh nghiệm hơn, mang lại kết quả của dự án này cao hơn nữa.
C. KẾT LUẬN
I. Kết luận:
Mỗi thầy cô, ai cũng mong muốn học sinh của mình ngoan ngoãn, học giỏi, phát triển toàn diện, để mai sau trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh tiểu học như một cái cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm sóc cẩn thận, nhẹ nhàng dặn dò, làm gương chứ không phải khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân và phát triển.
Đứng trước vai trò, vị trí và tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp 4, tôi luôn tìm tòi, học hỏi và tích lũy thêm kinh nghiệm để lớp tôi luôn đạt được những kết quả và thành tích cao. trong tất cả các lĩnh vực. Chắc chắn rằng giải pháp đề xuất còn nhiều hạn chế và thiếu sót được rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Em rất mong được sự góp ý của Ban giám khảo rút kinh nghiệm.
II. Lời yêu cầu:
– Hàng năm cần tổ chức phong trào thi đua về một số nội dung liên quan đến công tác chủ nhiệm giữa các lớp, các khối.
– Tổ chức các hoạt động dành riêng cho giáo viên chủ nhiệm để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kể chuyện liên quan đến công tác chủ nhiệm,… để mọi người cùng lắng nghe, học hỏi và cùng tiến bộ.
– Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm để giáo viên tham khảo, nghiên cứu.
Kính mong lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn rất nhiều!
Ea M’nang, ngày 04 tháng 04 năm 2016
nhà văn

Tham Khảo Thêm:  bài tập kinh tế lượng chương 2 co loi giai

Related Posts

Hạ Long Bay | Cảnh Sắc Con Người

Hạ Long là một thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh, nằm ở phía bắc của Việt Nam. Thành phố Hạ Long nổi tiếng với Vịnh Hạ Long…

chính sách tỷ giá của việt nam qua các thời kỳ

Chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam theo nguyên tắc cố định, thả nổi biên độ cộng trừ 2%. Chính sách này đã được duy…

báo cáo thành tích cá nhân trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc

Chiều ngày 06/3/2023, thành phố Yên Bái tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh…

giáo án kỹ năng sống cho trẻ 24 36 tháng

Kỹ năng sống cả tuổi: 12-24 tháng TẢI FILE TẠI ĐÂY 2/5 – (1 phiếu bầu) Tham Khảo Thêm:  đề thi violympic toán tiếng anh lớp 8…

báo cáo thực tập công ty du lịch lữ hành

Mục lục Báo cáo thực tập công ty lữ hành : Một số giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ lữ hành của công ty du…

700 câu hỏi trắc nghiệm pháp luật đại cương có đáp án

đề thi trắc nghiệm pháp luật đại cương Câu 651. Chủ thể của luật tố tụng hình sự: A. Cơ quan tiến hành tố tụng B. Người…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *