Triết học là gì?
Trước khi đi vào tìm hiểu vấn đề cơ bản triết học là gì trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm triết học.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó; những vấn đề liên quan đến sự thật, sự tồn tại, tri thức, giá trị, luật pháp, ý thức và ngôn ngữ.
Triết học phản ánh thế giới như một chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và trình bày chúng một cách có hệ thống dưới hình thức lý luận.
Theo Ăng-ghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là của triết học hiện đại, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
Như chúng ta đã biết, triết học là bộ môn nghiên cứu những vấn đề chung, cơ bản về con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan. Triết học xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII-VI TCN ở một số nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Đông... nhưng triết học cổ điển chỉ phát triển. ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại.
Triết học là hệ thống những tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học phản ánh thế giới như một chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và trình bày chúng một cách có hệ thống dưới hình thức lý luận. Cũng như các ngành khoa học khác, triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là cơ sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề còn lại gọi là vấn đề cơ bản. phiên bản triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức, nó là vấn đề cơ bản vì cách giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở giải quyết vấn đề. của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
Chủ nghĩa duy tâm lý luận về vấn đề cơ bản của triết học
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm cho rằng bản chất của thế giới là ý thức. ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh một phần nguồn gốc xã hội, một mặt thể hiện sự coi nhẹ, chuyên chế một mặt, một đặc điểm nhất định trong quá trình nhận thức, đồng thời nó gắn liền với lợi ích của con người. Giai cấp áp bức bóc lột nhân dân lao động.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận bản chất đầu tiên của ý thức con người và khẳng định rằng mọi sự vật hoặc hiện tượng chỉ là một phức hợp của các cảm giác cá nhân. Đại biểu George Berliner là một triết gia duy tâm chủ quan, một linh mục nhân bản. Đối với Berlin, ông nói rằng "các vật thể trong thế giới xung quanh chúng ta là phức hợp của các cảm giác".
Chủ nghĩa duy tâm khách quan đối lập với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, trường phái triết học này cho rằng ý thức và tinh thần nói chung là “ý niệm” “ý niệm tuyệt đối” “tinh thần thế giới” là cái tồn tại khách quan. phía con người. Điển hình cho quan điểm này là nhà triết học Hy Lạp cổ đại Plato hay nhà triết học cổ điển Đức Hegel.
Chủ nghĩa duy vật lý luận về vấn đề cơ bản của triết học
Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật là sự phát triển triết học theo quan điểm cho rằng bản chất của thế giới là vật chất. Vật chất có trước và quyết định ý thức. Chúng có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, gắn với lợi ích giai cấp cũng như lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa hiện thực với ý tưởng rằng thứ vật chất được cho là tồn tại là vật chất, rằng mọi thứ đều bao gồm vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật lý.
Kể từ khi ra đời, chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba giai đoạn chính: chủ nghĩa duy vật giản đơn, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau này được Lênin hoàn thiện, bổ sung.
Giải pháp của triết gia
Về vấn đề cơ bản của triết học có hai khía cạnh cụ thể
– Mặt thứ nhất (ontology) : đi tìm câu hỏi giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào quyết định cái nào?
– Mặt thứ hai (nhận thức luận) : Đi vào trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Thứ nhất là trả lời câu hỏi giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có 3 cách như sau. Phương hướng thứ nhất cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, đây là quan điểm của chủ nghĩa duy vật. Hướng thứ hai là ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất, theo chủ nghĩa duy tâm. Hướng thứ ba cho rằng ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau và không quyết định lẫn nhau. Như chúng ta thấy, qua cách giải quyết một và cách giải quyết hai là hai hướng trái ngược nhau, đều thừa nhận vật chất hoặc ý thức là nguồn gốc của thế giới, một bên sẽ quyết định phần còn lại. Giải pháp này thuộc triết học nhất nguyên, và giải pháp thứ ba là triết học nhị nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái là trường phái triết học nhất nguyên duy vật và trường phái triết học duy tâm. Triết học nhị nguyên cho rằng vật chất và ý thức tồn tại độc lập với nhau, đều là nguồn gốc của thế giới.
Mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã đưa ra ba cách giải quyết khác nhau, qua ba cách giải quyết này đã đúc kết được nhiều nội dung, vấn đề thuộc mặt thứ nhất của những vấn đề cơ bản của triết học. .
Tiếp đến là mặt thứ hai (nhận thức luận) nhằm trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới hay không. Về mặt này, các nhà triết học duy tâm cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới. Tuy nhiên, các nhà triết học duy vật lại có quan điểm cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng vì vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, nên nhận thức đó phản ánh thế giới vật chất vào bộ não con người. Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần tư duy, nhà triết học duy tâm khác lại theo “thuyết bất khả tri”. phủ nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về mặt nhận thức luận, các trường phái duy vật và duy tâm có những quan điểm khác nhau về vấn đề con người có khả năng nhận thức thế giới hay không? Tuy nhiên, hầu hết các nhà triết học đều tin rằng con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh.
Ví dụ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn
1. Trước khi ra trận ta làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình; rút ra những khuyết điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt chưa tốt, thực hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào rèn luyện tư tưởng ở địa phương. Hay giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong lĩnh vực nhận thức luận, bên ngoài nó sự phân biệt chỉ là tương đối, nên một chủ trương đúng đắn là kết hợp cả hai.
2. Thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với việc đề cao lợi ích vật chất như đạt danh hiệu thi đua, khen thưởng.
Trả lời câu hỏi vật chất có trước hay ý thức có trước và cái nào quyết định cái nào? Hay con người nhận thức được thế giới? Đây là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề khác của triết học, các học thuyết triết học rất đa dạng nhưng cũng phải trả lời câu hỏi vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào. và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vì vậy, vấn đề về mối quan hệ tư duy giữa tư duy và tồn tại giữa vật chất và ý thức được coi là vấn đề cơ bản của triết học.
Phương pháp biện chứng và siêu hình.
Phương pháp luận biện chứng là một trong những phương pháp luận tồn tại trong cả triết học phương tây và phương đông. Và nó đến từ những cuộc trò chuyện giữa hai hay nhiều người với những tư tưởng, quan điểm khác nhau và những người này đều có chung một mục đích, đó là thuyết phục người khác.
Phương pháp luận biện chứng nhìn các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với nhau, chúng tác động và ràng buộc lẫn nhau. Do đó, đối tượng có thể được nhìn thấy ở nhiều trạng thái khác nhau. Và những đối tượng này đều có một xu hướng phát triển chung đó là thuyết phục người khác. Thể hiện rõ tính biện chứng khách quan trong sự vận động, nhìn sự vật, hiện tượng một cách luôn vận động và phát triển
Ví dụ: Dưới tác động của nước, đá sẽ bị bào mòn.
Thứ hai là về phương pháp luận siêu hình. Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế giới và cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại độc lập với nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia và nó luôn ở trạng thái không tồn tại. vận động phát triển, trong phương pháp này có quan điểm rất đối lập với phương pháp biện chứng. Phương pháp luận siêu hình nhìn sự vật một cách chủ quan, phiến diện…. không thấy sự vật vận động phát triển mà cho rằng nó đứng yên.
Xem thêm: ứng dụng thời tiết
Trong phương pháp luận siêu hình, người ta chỉ thấy các hiện tượng riêng biệt, mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó, chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật đó, mà không thấy được thực tại. sự sinh diệt của sự vật, chỉ thấy sự tĩnh tại của sự vật mà quên đi sự vận động của sự vật.
Ví dụ thầy bói xem voi
Thêm một ví dụ nữa để chúng ta thấy sự khác biệt giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp luận biện chứng cho rằng con người tiến hóa từ vượn là có cơ sở khoa học và đã được nhiều thế hệ các nhà khoa học trên thế giới chứng minh.
Theo phương pháp siêu hình, con người do Thượng đế tạo ra.
Trên đây là toàn bộ nội dung mà chúng tôi muốn cung cấp cho các bạn liên quan đến những vấn đề cơ bản của triết học, hy vọng những thông tin mà chúng tôi cung cấp đã giúp bạn có cái nhìn đúng đắn. ngoài triết học và có thể học tập môn này một cách tốt nhất, cảm thấy yêu thích lĩnh vực này hơn. Xin cảm ơn các bạn đã quan tâm và theo dõi nội dung mà chúng tôi cung cấp.
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội sẽ được thể hiện thông qua các chức năng của triết học. Trong đó, triết học có nhiều chức năng khác nhau, nhưng quan trọng nhất vẫn là chức năng thế giới quan và phương pháp luận.
chức năng thế giới quan
Thế giới quan đóng vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người, mỗi giai cấp hay mỗi cộng đồng. Chúng giúp con người nhận ra bản chất thật của từng sự vật, sự việc. Và đặc biệt là hoạt động của con người thường bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định.
Khi được thế giới quan khoa học hướng dẫn cụ thể, con người sẽ luôn xác định đúng đắn mối quan hệ giữa mình với khách thể. Từ cơ sở đó, họ nhận thức đúng quy luật vận động của đối tượng, giúp xác định rõ phương hướng, mục tiêu và cách thức hoạt động của mỗi người.
Ngược lại, nếu một thế giới quan không được khoa học định hướng, con người đương nhiên sẽ không xác định được mục tiêu mong muốn của mình là gì? Hướng là gì hoặc nó hoạt động như thế nào? Kết quả là các hoạt động sẽ không đạt được kết quả như mong muốn.
chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống các quy luật rút ra từ các quy luật của thế giới khách quan. Đây cũng là cơ sở cực kỳ quan trọng cho phương pháp nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, việc hoàn thiện phương pháp luận còn giúp các nhà khoa học nghiên cứu, tìm ra những cách tiếp cận mới để xác định hướng đi đúng đắn. Giúp nâng cấp và cải tạo thế giới. Hiện nay, phương pháp luận được chia thành ba cấp độ chính:
phương pháp công nghiệp
Phương pháp chung
Phương pháp chung nhất
Vì sao vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động lên nó. thu hồi vật chất thông qua hoạt động của con người.
Theo Lênin, vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người sao chép, chụp lại, phản ánh và không tồn tại phụ thuộc. vào cảm giác.
Đặc điểm vật liệu:
Vật chất tồn tại nhờ vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
- Không có vật chất thì không có sự vận động và không có vật chất nếu không có sự vận động;
- Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
– Không gian, thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức thực chất là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
Ý thức là sự phản ánh của vật chất nên nó đứng thứ hai, thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức, vì vậy ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất, chịu sự tác động, quyết định của vật chất. Ngoài ra, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng đều dựa trên vật chất và tuân theo các quy luật của vật chất.
Tuy vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ quay trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi ra đời sẽ không bị vật chất kìm hãm mà có thể tác động, làm thay đổi vật chất.
Vì vậy, cốt lõi của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vì những lý do sau:
+ Vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề rộng nhất, phổ biến nhất. Làm nền tảng, định hướng để giải quyết các vấn đề khác.
+ Các trường phái triết học giải thích trực tiếp/gián tiếp mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đưa ra các quyết định của mình.
+ Quyết định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là điểm xuất phát để nảy sinh những quyết định triết học.
+ Xác định vấn đề cơ bản của triết học là tính khách quan khoa học để phá bỏ lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch sử.
*********************
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong
Danh mục: Tổng hợp
Xem thêm: hình nền con thỏ
Bình luận